22 thg 1, 2012

Rồng Việt Nam từ khởi nguồn đến hiện đại

nguồn: vnexpress

Theo GS sử học Lê Văn Lan, hình tượng rồng Việt Nam mỗi thời mang dáng dấp riêng. Thời Lý rồng hồn nhiên, đến thời Trần được thổi vào vẻ mạnh khỏe, thời Lê thì quan liêu hách dịch và thời Nguyễn trở nên cứng nhắc.







Ngày cuối năm Tân Mão, trong căn nhà nhỏ trên phố Nguyễn Văn Tố (Hà Nội), GS sử học Lê Văn Lan say sưa nói về con rồng, biểu tượng của năm mới Nhâm Thìn. Theo ông, hiện có rất nhiều quan điểm và cái nhìn về rồng ở Việt Nam. Tuy nhiên, để tìm hiểu được sâu sắc và tổng quan về con vật linh thiêng này cần bắt đầu từ ngôn ngữ học.
Rồng bắt đầu bằng phụ âm rung là "r". Từ "rồng" về mặt cấu trúc ngôn ngữ học là sự đơn âm tiết hóa (tức là làm cho từ gốc đa âm tiết của tiếng Việt cổ thành đơn âm) và được bảo lưu ở vùng Tây Nguyên. Ở đó người ta chỉ con sông là Krông, có 2 phụ âm kép K và R, nguyên âm "ông". Ví dụ Đăk - Krông nghĩa là nước sông; Krông Ana là thủy điện xây trên sông Ana. "Krông" khi đơn âm tiết hóa và bảo lưu lại phần phụ âm rung, cộng nguyên âm "ông" thì chính là "rồng".
"Do đó rồng có nguồn gốc tượng hình của con sông", GS Lan khẳng định và dẫn chứng thêm, nếu leo lên cao chụp lại các khúc uốn của con sông thì đó hoàn toàn là hình ảnh con rồng. Các biểu tượng rồng nghìn năm hiện nay cũng chính là hình ảnh dòng sông. Từ xa xưa, khi nào cần nước thì người dân cầu khấn rồng. Rồng sẽ phun nước cung cấp nguồn sống cho mùa màng. Rồng là một vị phúc thần.
Hình tượng rồng thời Lý với thân tạo hình dòng sông.
"Nhiều người cho rằng rồng chỉ gắn với vua chúa. Rồng là vua với các từ như long nhan (mặt vua), long thể (người vua), long sàng (giường vua)... Nhưng đó là một suy nghĩ hạn chế bởi rồng không chỉ gắn bó mà còn đồng nhất, đùa cợt, chơi đùa với dân", GS Lan nói.
Ông dẫn chứng, nếu tìm các mảng điêu khắc đình làng, nơi chứa tinh hoa nghệ thuật điêu khắc thế kỷ 17-19 sẽ gặp một loạt hình tượng rồng gắn bó với dân. Có ông cụ rồng đeo kính dạy học cho lũ rồng con, có ổ rồng trong đó con rồng mẹ đang quấn quít cùng rồng con. Đặc biệt có cả cảnh các cô gái làng tắm trần nhưng ở thế tắm chung với rồng, vuốt râu rồng, thậm chí cưỡi lưng rồng...
GS Lan cho hay, trong văn hóa học, nơi nào là xuất phát của văn hóa thì gọi là "bình phát", còn nơi tiếp nhận gọi là "bình chứa". Ở Việt Nam lưu hành ý kiến văn hóa Việt thường xuyên là bình chứa, nhưng thực chất có thời kỳ chúng ta là bình phát, có sự giao lưu hai chiều.
Cũng trong ngôn ngữ học, âm rung là ngôn ngữ phương Nam, còn Hán ngữ không có phụ âm đầu rung. Chính vì thế nên Trung Hoa biến tất cả âm rung thành âm lưỡi, âm "l". Ví dụ trong xướng âm chúng ta có đồ, rê, mi, pha, son, Trung Hoa lại biến thành tồ, lê, mi, pha, xô. "Rê" thành "lê", đó là quy luật biến âm rung thành âm lưỡi.
"Việc rồng biến thành long là hoàn toàn đúng quy luật. Vì Trung Quốc có thời đã lấy rồng từ Việt Nam và biến thành long", GS Lan nói và khẳng định Việt Nam nên tự hào là khởi hình cho rồng Trung Hoa, táp vào các đặc điểm hình thể để tạo nên long.
Vị giáo sư sử học phân tích thêm, con rồng gốc Trung Hoa trên vùng Hoàng Hà, từ Đường, Lục triều, Hán thì chính là sư tử. Về sau, cùng với sự bành trướng xuống phía Nam, gặp Dương Tử giang đã tiếp nhận chữ "giang", âm viết là "công" chính là âm "K" trong từ Việt cổ "Krông" - một kênh tiếp nhận thêm các yếu tố rồng của Việt Nam. Từ thân là con thú sư tử thành thân dòng sông, thân rắn. Như vậy ít nhất một nửa rồng Trung Quốc là của Việt Nam.
"Ở Việt Nam còn tồn tại tư duy đèn xếp, gấp hết tất cả nếp văn hóa, thời gian lại và gọi chung là rồng Việt Nam. Nhưng ta có rồng Lý, rồng Trần, đến Lê, Nguyễn", GS Lan nói.
GS Lê Văn Lan khẳng định, Việt Nam là khởi nguồn của hình tượng rồng thể hiện rõ trong ngôn ngữ học. Ảnh: Hoàng Thùy.
Rồng thời Lý uyển chuyển, thậm chí hồn nhiên, giữ nguyên khởi hình là con rắn. Nhiều người thấy hình vẽ thu nhỏ trên con tem, trông rất giống con giun thì gọi là rồng giun. Tuy nhiên, trước đây Viện trưởng Viện bảo tàng Mỹ thuật đầu tiên, họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung, thấy ai gọi là rồng giun thì có thể ngất vì giận.
"Đó là rồng rắn, con giun thì hèn hơn rắn nhiều và không thể uốn thân lượn sóng được. Con rồng này còn được lưu giữ ở trong những câu đồng dao như trò chơi dân gian rồng rắn lên mây", GS Lan cho hay.
Hình ảnh con rồng thời Lý thích hợp với chính sách nhà Lý lúc bấy giờ, mềm mại, uyển chuyển, xuất hiện những ông vua hiền. Cũng từ thời Lý, hình tượng rồng vua - rồng dân cũng có nét phân biệt, rồng vua có 5 móng, còn rồng dân chỉ 4 móng.
Thời Trần dùng nguyên hình ảnh rồng thời Lý nhưng táp vào đó hào khí Đông A. Hào khí thời Trần thấm vào con rồng khiến nó trở nên mập mạp. Nếu rồng Lý bị nhầm với giun thì rồng Trần không thể nhầm được vì nó khỏe mạnh, lực lưỡng.
Rồng Lê lại bị ảnh hưởng dội ngược từ Trung Hoa. Hình ảnh con rồng thời này vẫn còn lưu giữ trong điện Kính Thiên, đó là con rồng do vua Lê Thánh Tông cho làm vào ngày 15/8/1467 (âm lịch). Tạo hình con vật này hợp với thời phong kiến thịnh trị. Nó bệ vệ oai nghi trườn từ điện Kính Thiên xuống, dương vây dương vảy, tỏ vẻ nghênh ngáo đắc ý.
Nếu rồng thời Lý còn chân chim ưng xòe ra rất hồn nhiên vì gắn với tự nhiên thì rồng trong điện Kính Thiên thò tay ra quặp lấy râu, vuốt râu. Rồng thời Lê vì thế trở thành quan liêu, dương dương tự đắc. Nó không còn hồn nhiên như thời Lý, khỏe mạnh như thời Trần mà trở thành một thế lực ung dung tự tại, nghênh ngang, hách dịch.
Đến rồng thời Nguyễn thì hoàn toàn xơ cứng, thể hiện rõ bước thoái trào của chế độ phong kiến. Nó chịu ảnh hưởng ngược của rồng Trung Hoa, trở nên cứng ngắc, đầy vẻ dọa nạt giống con rồng thời Minh, Thanh. Rồng ở cung đình, đền miếu lúc này như một thế lực đe dọa chứ không đùa giỡn với mọi người. Nó đi qua bước hồn nhiên thời Lý, khỏe mạnh thời Trần, quan liêu thời Lê và trở nên cứng nhắc thời Nguyễn.
"Ngày nay, trong thị hiếu của thời đại mới thì hình tượng rồng càng phức tạp, lòe loẹt, chứ không sâu sắc mang ý nghĩa như ngày xưa. Đặc biệt khi ta đang muốn 'hóa rồng' thì cần chú ý chọn mô hình nào để mà 'hóa", GS Lê Văn Lan nói.
Hoàng Thù

xxxxxxxxxxxxxxxx
Phần đông người Việt sống ven vùng sông nước nên từ thời xa xưa họ đã tôn sùng cá sấu như một con vật linh thiêng, vì chúng đại diện cho sự trù phú và sức mạnh, thời kỳ này vùng đất người Việt sống còn rất nhiều cá sấu.  Họ đã thần thánh hóa loài cá sấu lên thành con “Giao Long” mà người Trung Hoa gọi sau này, một cách thức tô điểm cho hình hài con cá sấu nhiều chi tiết tưởng tượng và cũng nhiều ý nghĩa hơn.  Con rồng này tồn tại cùng tâm thức của người Việt trong suốt thời kỳ lập quốc hơn bốn nghìn năm trước.  Dân tộc và đất nước Việt Nam chúng ta đối với Rồng rất mật thiết với nhau, bằng chứng là dân tộc chúng ta theo truyền thuyết, giòng giống phía nội có Cha là Lạc Long Quân gốc Rồng, kết hôn bên ngoại với mẹ là bà Âu Cơ là Tiên Nữ, rồi sanh bọc trăm trứng, từ đó dân tộc chúng ta xem như giống Rồng Tiên.  Nếu chúng ta nhìn hình thể đất nước Việt Nam từ Bắc chí Nam với hình cong chữ S, giống như con Rồng nằm uốn khúc dọc theo bờ biển và các địa danh như Vịnh Hạ Long, Bạch Long Vĩ, Bái Tử Long, Hàm Rồng, núi Long Tu, Kim Long, Phước Long, Vĩnh Long, Cửu Long…
Cả một ngàn năm bị đô hộ bởi người Tàu, trong hoàn cảnh của chính sách Hán hóa, hình ảnh con rồng Việt Nam phát triển theo các xu hướng giống với con rồng của người Hán.  Đến khi giành được độc lập, thời kỳ nhà Lý lên nắm quyền, Việt Nam đã có con rồng cho riêng mình và khác với con rồng Trung Hoa.  Văn hóa Việt Nam trong đó có mỹ thuật đã nói lên được sự tự hào và độc lập trong nghệ thuật biểu hiện của mình.
Rồng chữ Hán là Long, chữ Phạn là Nâga, là một hình tượng linh thiêng, đứng đầu trong tứ linh là Long, Lân, Qui, Phụng (Rồng, Lân, Rùa, Phượng Hoàng).  Rồng được đặt ở đâu thì nơi đó mang ý nghĩa tốt đẹp chứa đựng điều cát tường, cao quí, quyền năng, nhân hậu thông minh, mạnh mẽ, tốt đẹp, may mắn…  Cho nên trang cdnth6875.com trong năm 2012 chắc chắn sẽ đạt được những thành quả tốt đẹp đó vì trong trang đã có ít nhất là Lân và Rùa.  Hình tượng Rồng Việt Nam luôn có những đặc tính riêng rõ ràng đó là:
1.  Đầu rồng là phần rất đặc biệt, hoàn toàn khác rồng Trung Hoa.  Nó có bờm dài, râu cằm, không sừng.  Mắt lồi to, hàm mở rộng có răng nanh ngắt lên, đây là điểm hoàn toàn khác với các con rồng khác của các nước.  Đặc biệt là cái mào ở mũi, sun sóng đều đặn, có người gọi là mào lửa, chứ không phải là cái mũi thú như rồng Trung Hoa.  Lưỡi mảnh rất dài.  Miệng rồng luôn ngậm viên châu tượng trưng cho tính nhân văn, tri thức và lòng cao thượng.  Đầu rồng luôn hướng lên đớp lấy viên ngọc thể hiện tinh thần tôn trọng các giá trị nhân văn cao quý, theo đuổi sự uyên bác và tinh thần cao thượng.
2.  Thân rồng có hình uốn 12 khúc, đại diện 12 tháng trong năm, biểu trưng cho sự thay đổi thời tiết năm tháng, sự trù phú và phồn vinh của nền văn hóa nông nghiệp lúa nước.  Thân có vảy đều đặn, mềm mại uốn lượn thể hiện sự biến hóa và khả năng thay đổi, dịch chuyển thiên nhiên của con rồng cai quản thời tiết, mùa màng.  Trên lưng có vây nhỏ đều liền mạch.  Bốn đùi hình dáng mạnh mẽ như đùi cọp, chân có 5 móng như móng phượng hoàng.
3.  Đuôi rồng hình rắn có nhiều vây tủa ra chung quanh như hình mặt trời, có ý rằng rồng đi đến đâu mang theo ánh sáng vinh quang đến đó.
Theo truyền thuyết Rồng có chín đứa con (Long Sinh Cửu Phẩm của Trung Hoa), là chín loài thần thú nhưng không phải Rồng.  Tùy vào tính cách của mỗi con mà người ta dùng trang trí ở những nơi khác nhau như cung vua, lăng tẩm, chùa chiền, mái hiên, nóc nhà, lan can, vũ khí, chiến thuyền…, các phẩm không giống nhau phân biệt như sau:
Con trưởng là Bị Hí, còn có tên khác là Bá Hạ, Bát Phúc, Thạch Long Qui.
Con thứ hai là Li Vãn, còn có tên gọi là Si Vẫn.
Con thứ ba là Bồ Lao.
Con thứ tư là Bệ Ngạn, còn có tên gọi khác là Bệ Lao, Hiến Chương.
Con thứ năm là Thao Thiết.
Con thứ sáu là Công Phúc.
Con thứ bảy là Nhai Xế.
Con thứ tám là Toan Nghê, còn có tên gọi khác là Kim Nghê.
Con thứ chín là Tiêu Đồ.
Trong chín con của Rồng chỉ có Bị Hí thích mang vật nặng, ngoại hình của nó giống con rùa, đầu thì giống rồng, gọi là con thú mang bia nên một số người, cả các nhà Sử Học có sự nhầm lẫn khi cho rằng các con vật đội bia ở Văn Miếu Quốc Tử Giám là loài Rùa, thật ra đó là Bị Hí (hay Bá Hạ) vì ngoài đặc tính thích mang vật nặng nó cũng rất thích văn chương nên người xưa dùng nó để đặt bia Tiến Sĩ, điều này mang ý nghĩa sâu sắc hơn là một con rùa bình thường.
Ngoài chín linh vật nói trên, gia đình Rồng còn có một số linh vật khác như: Tù Ngưu, linh vật giỏi về âm luật nên thường được khắc trên các nhạc cụ, nhạc khí…  Trào Phong, linh vật thường được chạm khắc trên nóc nhà với ngụ ý chống hoả hoạn và thị uy kẻ xấu (gần giống với Li Vãn).  Phụ Hí, linh vật được chạm khắc trên các bia mộ, bài vị với ngụ ý bảo vệ mộ phần người đã khuất.
Theo thần thoại, rồng có hình dạng rất lạ kỳ: đầu rồng giống như đầu kỳ đà, sừng giống như sừng nai, cổ giống như cổ rắn, bụng giống như bụng con giao (giao long-thuồng luồng), mắt giống mắt thỏ, tai giống tai bò, chân giống chân cọp, móng giống móng chim ưng, vảy rồng giống như vảy cá ly.  Rồng là vua của loài có vảy, có tài biến hóa, làm tối được, làm sáng được, làm lớn được, làm nhỏ được, nhằm tiết xuân phân thì lên trời, nhằm tiết thu phân thì xuống biển hay xuống đất. Kinh Phật nói: “Long thường tại định, vô hữu bất định thì” nghĩa là Rồng thường ở vào thiền định, không có lúc nào chẳng thiền định.  Tùy theo màu sắc, hình dáng, hoặc tùy theo nhiệm vụ của Rồng, được phân loại ra như sau:
Theo màu sắc có 5 loại: Bạch long, Huỳnh long, Thanh long, Xích long, và Hắc long là rồng toàn thân màu trắng, màu vàng, màu xanh sậm, màu đỏ, và màu đen.  Rồng đen là hình ảnh của cái gọi là “vòi rồng” ngoài biển khơi, báo hiệu mưa thuận gió hòa, làm tốt tươi đồng ruộng, cỏ cây.  Còn rồng trắng báo hiệu thời tiết khô hạn, ruộng đồng nứt nẻ, mất mùa đói kém, đến Vua còn phải rời ngai vàng kiếm sống huống hồ dân dã.
Theo hình dáng có 3 loại: Rồng trẻ, đầu không có sừng, gọi là Ly long.  Rồng sống được 500 năm thì mọc sừng, gọi là Cù Long.  Rồng sống được 1,000 năm trở lên thì có sừng dài và mọc thêm cánh, gọi là Ứng long.
Theo nhiệm vụ có 4 loại:  Thủ thiên cung long là Rồng ở cõi Trời, gìn giữ Thiên cung.  Hành vũ long là Rồng làm mưa – hành là làm, vũ là mưa.  Rồng nầy có hai hạng là Thiện hành vũ long thì làm cho mưa thuận gió hòa, còn Ác hành vũ long thì làm cho mưa to, gây lũ lụt.  Địa Long là Rồng ở dưới đất sâu, làm hầm khoét hang, làm thành sông, hồ, biển.  Và Phục tạng long là Rồng giữ gìn kho tàng của vua Chuyển Luân Thánh vương và các nhà phước đức lớn.
Tương truyền, rồng ở đáy biển, có lầu đài cung điện, có tổ chức vua, quan, quân lính.  Rồng làm vua gọi là Long vương, cung điện của Long vương là Long cung, các quan của vua rồng là loài cá lớn, quân lính là các loài cá nhỏ.
Phan Ngọc Quyến

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét